Chết Giữa Mùa Hè

Chết Giữa Mùa Hè

Giới thiệu

Chết Giữa Mùa Hè


Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Chết Giữa Mùa Hè của tác giả Yukio Mishima.
 

Truyện Ưu quốc (Yuukyoku) được Miêng dịch từ bản Pháp ngữ: Patriotisme của Dominique Aury, trong Tuyển tập truyện ngắn La Mort en été, Gallimard, 1997.

Truyện Onnataga và kịch Đạo Thành tự (Dojoji) được Nam Tử dịch từ bản Anh ngữ ở cuốn Death in Midsummer and Other Stories, Penguin Books, 1971.

Truyện Đôi cánh (Tsubasa) – Dì Haruko (Haruko) – Chết Giữa Mùa Hè (Manatsu no shi) – Hồn bướm (Chôchô) – Chim công (Kujaku) – Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga (Shigadera shônin no koi) – Bồn phun nước giữa cơn mưa (Ame no naka no funsui) và kịch Nàng Aoi (Aoi) được Nguyễn Nam Trân tuyển chọn và dịch từ nguyên tác tiếng Nhật, trong Tuyển tập Manatsu no shi (Chết giữa mùa hè), 1970, Shincho, ấn bản lần thứ 57, Tokyo, 2013,và Toàn tập Mishima Yukio, Shincho, Tokyo, 1973. Có tham chiếu thêm bản dịch Pháp ngữ.

***

YUKIO MISHIMA
(1925-1970)

 

Tên thật là Hiraoka Kimitake. Thuở nhỏ, Mishima được dạy dỗ theo truyền thống khắc kỷ như quân đội. Sau khi tốt nghiệp đại học, dầu đỗ vào ngạch công chức cao cấp Bộ Tài chính, ông đã từ chức sau một năm sống đời “sáng vác ô đi tối vác về” để chọn con đường viết văn gian nan gai góc hơn.

Là người có lý tưởng tôn quân bảo hoàng, ông đã cùng các bạn đồng chí hướng đánh chiếm doanh trại của quân đội Nhật ở Ichigaya ngày 25/11/1970 nhằm kêu gọi binh linh ở đó hành động, gây áp lực lên dư luận để sửa đổi hiến pháp cho phép Nhật Bản tái vũ trang. Giữa sự thờ ơ và chế nhạo của mọi người, Mishima đã mổ bụng tự sát.

***

Tóm tắt

Chết Giữa Mùa Hè là một tuyển tập truyện ngắn và kịch của nhà văn Nhật Bản Yukio Mishima, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1967. Tuyển tập bao gồm mười tác phẩm, trong đó có ba truyện ngắn và bảy kịch.

Truyện ngắn “Ưu quốc” kể về một sĩ quan Nhật Bản trẻ tuổi, Yuichi, người đã tự sát để phản đối việc Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh trong Thế chiến thứ hai.

Truyện ngắn “Onnataga” kể về một người đàn ông trẻ tuổi, Tetsuo, người đã bị ám ảnh bởi một người phụ nữ mà anh ta đã gặp trong một giấc mơ.

Kịch “Đạo Thành tự” kể về một nhóm các võ sĩ Nhật Bản, những người đã tự sát để bảo vệ danh dự của mình.

Các tác phẩm khác trong tuyển tập bao gồm các chủ đề đa dạng như tình yêu, cái chết, tôn giáo và chính trị.

Review

Chết Giữa Mùa Hè là một tuyển tập xuất sắc của Mishima, thể hiện phong cách viết đặc trưng của ông. Các tác phẩm trong tuyển tập thường mang tính chất biểu tượng và triết lý, khám phá những chủ đề phức tạp như bản chất của cái đẹp, ý nghĩa của cái chết và vai trò của nghệ thuật trong xã hội.

Truyện ngắn “Ưu quốc” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Mishima. Truyện ngắn này kể về một câu chuyện có thật về một sĩ quan Nhật Bản trẻ tuổi, Yuichi, người đã tự sát để phản đối việc Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh trong Thế chiến thứ hai. Truyện ngắn này là một lời ca ngợi tinh thần yêu nước và sự hy sinh của Yuichi.

Truyện ngắn “Onnataga” là một câu chuyện về tình yêu và dục vọng. Truyện ngắn này kể về một người đàn ông trẻ tuổi, Tetsuo, người đã bị ám ảnh bởi một người phụ nữ mà anh ta đã gặp trong một giấc mơ. Truyện ngắn này là một khám phá về bản chất của ham muốn và những hậu quả của việc không thể kiểm soát được ham muốn.

Kịch “Đạo Thành tự” là một vở kịch về tinh thần tự tôn. Vở kịch này kể về một nhóm các võ sĩ Nhật Bản, những người đã tự sát để bảo vệ danh dự của mình. Vở kịch này là một lời ca ngợi tinh thần thượng võ và sự hy sinh của các võ sĩ.

Các tác phẩm khác trong tuyển tập cũng rất đáng chú ý. Kịch “Nàng Aoi” là một vở kịch về tình yêu và cái chết. Kịch “Chiếc bồn phun nước giữa cơn mưa” là một vở kịch về sự cô đơn và tuyệt vọng. Truyện ngắn “Đôi cánh” là một câu chuyện về sự trưởng thành và giải phóng. Truyện ngắn “Hồn bướm” là một câu chuyện về tình yêu và mất mát. Truyện ngắn “Chim công” là một câu chuyện về sự lừa dối và phản bội.

Chết Giữa Mùa Hè là một tuyển tập đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến văn học Nhật Bản. Tuyển tập này là một ví dụ điển hình về phong cách viết độc đáo và đầy thách thức của Mishima.

Đánh giá

Chết Giữa Mùa Hè là một tuyển tập xuất sắc của Mishima, thể hiện phong cách viết đặc trưng của ông. Các tác phẩm trong tuyển tập thường mang tính chất biểu tượng và triết lý, khám phá những chủ đề phức tạp như bản chất của cái đẹp, ý nghĩa của cái chết và vai trò của nghệ thuật trong xã hội.

Tuyển tập này là một ví dụ điển hình về phong cách viết độc đáo và đầy thách thức của Mishima. Mishima là một nhà văn tài năng và táo bạo, không ngại khám phá những chủ đề nhạy cảm và thách thức những định kiến của xã hội. Chết Giữa Mùa Hè là một minh chứng cho tài năng và sự táo bạo của Mishima.

Một số điểm nổi bật của cuốn sách:

  • Phong cách viết biểu tượng và triết lý
  • Khám phá những chủ đề phức tạp
  • Tài năng và sự táo bạo của Mishima

Đối tượng phù hợp:

  • Những người yêu thích văn học Nhật Bản
  • Những người quan tâm đến các chủ đề phức tạp
  • Những người yêu thích phong cách viết độc đáo và đầy thách thức
***

NIÊN BIỂU SÁNG TÁC CỦA MISHIMA YUKIO

 

  • 1925: Mishima ra đời trong khu Yotsuya, gần Shinjuku, trung tâm Tokyo. Tên thật là Hiraoka Kimitake. Con trai trưởng trong gia đình. Bố tên Azusa là một quan chức bộ Nông Lâm, mẹ là bà Shizue, xuất thân con gái nhà quyền quý. Thuở nhỏ ông hay đau yếu, được bà nội nuôi và nuông chiều.

  • 1931: (6 tuổi) Học tiểu học ở Gakushuuin (Học Tập Viện, một trường dành cho con nhà gia thế). Tuổi thơ làm quen với truyện nhi đồng của Ogawa Mimei và Suzuki Miekichi.

  • 1937: (12 tuổi) Lên trung học ở Gakushuuin. Rời tay bà về ở với bố mẹ ở Shibuya. Đã bắt đầu làm thơ và tùy bút, được đăng trên báo nhà trường.

  • 1938: (13 tuổi) Truyện ngắn đầu tiên Lá me chua(Sukanbo) cũng trên báo nhà trường.

  • 1940: (15 tuổi) Viết truyện Kính muôn màu (Damie Garasu) và học làm thơ. Bắt đầu đọc các tác giả Radiguet, Wilde, Rilke và Tanizaki Jun’ichirô.

  • 1941: (16 tuổi) Được một vị thầy giới thiệu, cho đăng trên tạp chí Bungei Bunka (cơ quan của trường phái lãng mạn Nhật Bản) tác phẩm Khu rừng kết hoa(Hanazakari no mori).

  • 1942: (17 tuổi) Vào ban Cao trung trường Gakushuuin, chọn ngoại ngữ là tiếng Đức. Lúc này, yêu thích những vần thơ lãng mạn của Itô Shizuo (1906-53).

  • 1944: (19 tuổi) Vào học luật Đức ở phân khoa Luật Đại học Tokyo. In tập truyện ngắn đầu tiên (cũng nhan đề Hanazakari no mori). Viết Thời trung cổ (Chuuse), một chủ đề lịch sử.

  • 1945: (20 tuổi) Xin đăng lính nhưng bị quân y kiểm tra thấy sức khỏe kém bắt đi về. Xung vào đội dân công làm việc ở cơ xưởng của Hải quân vùng Yokohama. Viết Truyện ở đầu mũi đất (Misaki nite no monogatari). Em gái là Mizuko bị bệnh chết ở tuổi 17.

  • 1946: (21 tuổi) Viết lại Thời trung cổ (Chuuse) vì bản cũ đã bị hỏa tai thiêu rụi. Được Kawabata giới thiệu với tạp chí Con Người (Ningen) nên đăng đoản thiên Thuốc lá (Tabako) ở đấy. Lần lượt các tác phẩm đã viết như Truyện ở đầu mũi đất và Thời trung cổ cũng được in trên các tạp chí Gunzô và Ningen.

  • 1947: (22 tuổi) Bi kịch (Loạn luân) của Hoàng tử Karu và công chúa Sotôri (Karu no miko to Sotôri hime) được đăng trên Gunzo, Chuẩn bị cho đêm về (Yoru no shitaku) trên Ningen. Tốt nghiệp cử nhân Luật và trúng tuyển kỳ thi công chức cao cấp Bộ Tài chánh, được giao phụ trách bộ phận kiểm soát ngân hàng. Lần lượt cho ra đời Dì Haruko (Haruko), Kẻ âm mưu tự sát (Jisatsu Kitosha), sẽ là một phần của Bọn đạo tặc (Tôzoku).

  • 1948: (23 tuổi) Tháng Giêng cho đăng Gánh xiếc(Sarukasu), tháng Ba đăng Hồn bướm (Chôchô), Bắt đầu đoạn cuối một chuyện tình (Koi no shuukyoku no monogata ri no hattan) (cũng là một phần của Bọn đạo tặc về sau), tháng Tư đăng Cuộc họp mặt gia đình(Kazoku awase) và Tuẫn đạo (Junshi), tháng Năm đăng Đám cưới của pharaon Tutankhamen (Tutankhamen no kekkonshiki), Buổi dạ vũ của Bá tước d’Orgel(Dorugeru hasshaku no butôkai), và kịch bản Hoa xương bồ (Ayame), Từ thiện (Zizen), Buôn bán châu ngọc (Hôseki baibai) và Một nhà nghệ thuật đi ngược thời đại (Hanjidai tekina geijutsuka), Những quý tộc sa sút (Botsuraku suru kizokutachi)… Cùng tháng đó, từ chức công việc ở Bộ Tài chính để chuyên chú vào việc sáng tác. Tháng Mười, đăng Người sống với cái đẹp(Biteki seikatsusha), Chiếc dù tây không có thực(Fujitsu no yôsan), vở kịch Kataku Ngôi nhà đang cháy, Cái đầu sơn dương (Sanyô no kubi), Sư tử cái (Shishi)…

  • 1949: (24 tuổi) Cho ra mắt Đại thần (Daijjn), Gánh nặng của tình yêu (Koi no omoni), Cách chữa một căn bệnh gọi là hạnh phúc (Kôtuku to iu byôki no ryôhô), Bàn về cách dùng thuốc độc cho xã hội (Dokuyaku no shakaitekina tsukaikata ni tsuite), Khi bọn ma quái đi ngang qua (Magun no tsuuka), vở kịch Âu lo trong tình yêu (Ai no fuan). Tháng Ba đăng Người hầu cận (Jidô), tháng Tư đăng Tranh tự họa của một người thích phản kháng và mạo hiểm (Hankô to bôken: jigazô), vở kịch Ngọn hải đăng (Tôdai), xã luận văn học Nhân bàn về Radiguet và những người khác (Radige sonota puchi puropo) cũng như Truyện tối trăng mưa (của Ueda Akinari): tác phẩm cổ điển và tôi (Ugetsu Monogatari ni tsuite: watashi to koten), tháng Mười đăng Một gia đình chán mớ (Taikutsu na kazoku), vở kịch Thánh nữ(Seijo), tháng Mười một đăng Khi núi lửa nghỉ ngơi(Kazan no kyuuka) và Một cơ hội thân thiết(Shinsetsuna kikai) và Hiếu Kinh (Kôkyô).

  • 1950: (25 tuổi) Tháng Giêng, đăng Trái cây (Kajitsu) trên tạp chí Shinchô và Thái thượng hoàng Kazan (Kazan-in) trên Bungakukai, Đêm thuần khiết (Junpaku) trên Fujn Kôron. Tháng Hai trình diễn vở Ngọn hải đăng(Tôdai) ở kịch trường Haiyuuza. Tháng Ba đăng Chuyến đi tham quan với nhà trường (Shuugaku Ryôkô) trên tuần san Asahi. Tháng Tư cho ra mắt Bàn về Oscar Wilde trên Kaizô Bungei. Tháng Sáu xuất bản Ngọn hải đăng (Tôdai), Quái vật (Kaibutsu) và tiểu thuyết trường thiên Khát tình (Ai no kawaki). Tháng Bảy, bắt đầu cho đăng Thời đại màu thiên thanh (Ao no jidai) trên Shinchô và Một ngày Chủ nhật (Nichiyôbi) trên Chuuô Kôron. Tháng Tám cho in Chuyến du ngoạn(Enjôkai) và Cô đơn trong phòng khuê (Kokei monmon). Cùng tháng đó, dọn về sống trong khu Meguro (cũng thuộc Tokyo). Tháng Mười cho đăng kịch Nô hiện đại mang tên Hàm Đan (Kantan), thàng Mười hai ra mắt Chó cái (Mesu no inu).

  • 1951: (26 tuổi): Tháng Giêng ra mắt Tòa án gia đình(Katei saipan), Những người đàn bà có chí lớn (Joryuu risshi) và đăng nhiều kỳ truyện dài Tình kiểu cấm(Kinjiki) trên tạp chí Gunzô cũng như vở Nô kiểu mới Cái trống gấm (Aya no tsutsumi) trên Chuuô Kôron. Tháng Ba lần lượt đăng Những cặp chị em vĩ đại (Idai na shimai), Cái ghế (Isu) và Người thợ khéo ở Hakone(Hakone saiku). Tháng Tư cho đăng Đảo của sự chết(Shi no shima) và in Thánh nữ (Seijo). Tháng Năm đăng Đôi cánh (Tsubasa), tháng Sáu đăng Đi săn và con mồi(Kari to emono), tháng Tám đăng truyện dài Cuộc mạo hiểm của Natsuko (Natsuko no boken). Cùng lúc, Đêm thuần khiết được đưa hãng phim Shôchiku đưa lên màn bạc. Tháng Chín đăng Tanizaki Junichirô, nhan đề một luận thuyết về nhà văn này. Tháng Mười, đăng Món đồ mang theo người (Keitaiyô). Tháng Mười một, nhà xuất bản Shinchô in tập đầu của Tình kiểu cấm,tháng Mười hai thì Cuộc mạo hiểm của Natsuko cũng được nhật báo Asahi in thành sách. Cùng trong tháng này, đăng Cây tùng ở ly cung (Rikyuu no matsu). Với tư cách đặc phái viên Nhật báo Asahi, Mishima bắt đầu làm một chuyến du hành thế giới.

  • 1952: (27 tuổi) Tháng Giêng, đăng vở Nô cận đại Tháp bia mộ của Komachi (Sotoba Komachi) trên tạp chí Gunzô và Lắp ráp ô chữ (Crosswords puzzle) trên tạp chí Bungei Shunjuu cũng như Con người lịch sự(Shinshi), một vở kịch không lời, trên chuyên san kịch nghệ Engeki. Cùng tháng đó đến Bắc Mỹ. Tháng Hai, cho đăng vở kịch Không có gì cao hơn nó (Tada hodo takai mono wa nai) trên Shinchô. Cho diễn hai vở Nô cận đại Tháp bia mộ của Komachi và Cái trống gấm. Cùng lúc đó, đặt chân đến Paris sau khi đã ghé Brazil. Ở đây, viết Hoa hướng dương ban đêm (Yoru no himawari). Tháng Tư, cho đăng Nhật ký nước Mỹ (Amerika nikki) trên Gunzô. Về nước vào tháng Năm sau khi đã ghé Anh, Hy Lạp và Ý. Tháng này, cho đăng các bài báo Ký sự về Rio de Janiero, Đường chim bồ câu ở Sao Paulo. Tháng Bảy cho ra mắt Tự sự về chuyến đi miền đông nước Mỹ (Tôbei Kikô) và tường thuật các chuyến đi Hy Lạp và La Mã. Tháng Chín, Khát tình và Lời thú thực của mặt nạ được cơ sở xuất bản Chikuma phát hành. Tháng Mười, cho đăng Chết giữa mùa hè(Manatsu no shi) trên Shinchô. Tháng Mười một đăng Mác đồ Nhật (Nipponsei) nhiều kỳ trên báo Asahi.

  • 1953: (28 tuổi) Tháng Sáu cho đăng Trứng (Tamago), Mộ bia của những chuyến đi (Ryôkô no bohimei), Dừng xe đột ngột (Kyuuteisha) và bài bình luận Jean Cocteau và điện ảnh (Jan Kokutô to eiga). Cho diễn vở kịch Hoa hướng dương ban đêm với nữ diễn viên Nagaoka Teruko ở Osaka và Kyoto. Tháng Bảy, ra mắt Những người đàn bà bất mãn (Fuman na onnatachi) và một xã thuyết về nhà thơ Itô Shizuo. Vào lúc này, nhà xuất bản Shinchô in một toàn tập sáu quyển gồm các tác phẩm ông đã viết đến thời điểm đó. Tháng Tám, đăng một bài bình luận về Jean Genet và Thủ phủ của tình yêu (Koi no Miyako). Tháng Chín, đăng Pháo hoa (Hanabi) trên tờ Kaizô, Cái chết của Radiguet (Radige no shi) trên Chunô Kôron cũng như một xã thuyết nhan đề Đạo đức và cô độc (Dôtoku to kodoku) trên Bungakukai. Mác đồ Nhật được dựng phim với đạo diễn Shima Kôji.

  • 1954: (29 tuổi). Tháng Giêng, cho đăng vở Nô cận đại Nàng Aoi (Aoi) trên tạp chí Shinchô và xã luận Bàn về lối hành văn hạ cấp (Hizoku na buntai ni tsuite) trên Gunzô. Tháng Sáu, đăng vở kịch Hỡi người trẻ tuổi, hãy hồi sinh! Wakahito yo, yomigaere) và Cuộc triển lãm (Hakurankai). Tiểu thuyết trường thiên Tiếng sóng xao (Shiosai) được nhà xuất bản Shinchô in thành sách. Tháng Bảy cho đăng Căn phòng bị khóa (Kagi kakaru heya), Phục thù (Fukushuu). Tháng Tám đăng Nàng tiên tan biến (Toketa tenjo), Nữ thần (Megami) và Gã thiếu niên làm thơ (Shi wo kaku shônen). Tháng Mười, cho đăng trên Bungei Shunjuu Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga (Shigadera shônin no koi). Cùng lúc, Tiếng sóng xao được hãng Tôhô dựng thành phim. Tháng Mười một, đăng Tiếng nước (Mizuoto), Cứu tôi với(SOS) và dựng một vở Kabuki với đoàn kịch Kichiemon. Tháng Mười hai, đăng Bàn về Akutagawa(Akutagawa ni tsuite) trên tờ Bungei. Đoạt giải văn chương Shinchô phát lần thứ nhất nhờ sự thành công của Tiếng sóng xao.

  • 1955: (30 tuổi). Tháng Giêng đăng Biển và hoàng hôn(Umi to yuuyake) trên tạp chí Gunzô và Ngọn thác bị chìm (Shizumeru taki) trên Chuuô Kôron, vở Nô cận đại Nàng Ban (Hanjô) trên Shinchô. Tháng Hai có diễn vở Kabuki nhan đề Nàng Yuya (Yuya) và đăng Tờ nhật báo (Shimbunshi) trên Bungei. Tháng Tư cho đăng Con buôn (Akindo), Quỷ núi (Yama no oni). Tháng Bảy đăng các luận thuyết Eros có cần cho văn nghệ không?(Bungei ni Erosu hitsuyô ka?), Vai trò của sự hư không – Vai trò của thanh niên (Kuuhaku no yakuwari – Seinen no yakuwari) và đăng liên tục Con tàu tên Hạnh phúc ra khơi (Kôfukugô shuppan) trên Nhật báo Yomiuri đến tháng Mười một. Tháng Bảy cho đăng Hoa mẫu đơn(Botan) trên Bungei. Nhà xuất bản Shinchô in và phát hành Cái chết của Radiguet (Radige no shi). Tháng Tám, ông bắt đầu chuyên chú luyện tập thể hình. Tháng Chín, cho đăng vở kịch Tổ kiến trắng (Shiraari no su) trên tạp chí Bungei. Tháng Mười, kịch trường Haiyuuza dựng lại vở kịch ấy trên sân khấu. Tháng Mười một, nhà xuất bản Kôdansha phát hành Cuộc nghỉ hè của một tiểu thuyết gia (Shôsetsuka no kyuuka), ban kịch Kabukiza trình diễn vở Truyện thực chép về Fuyuu no Tsuyu Ôuchi (Fuyuu no tsuyu Ôuchi jikki). Được biết vở này được phỏng theo tác phẩm Dì ghẻ Phèdre(Phèdre) của Jean Racine (Pháp). Tháng Mười hai, cho diễn vở Nô cận đại Cái trống gấm. Cùng lúc, vở Tổ kiến trắng đoạt giải kịch nghệ Kishida, một giải thưởng vinh danh kịch sĩ kiêm đạo diễn Kishida Kunio (1890-1954).

  • 1956: (31 tuổi). Từ tháng Giêng đến tháng Mười, đăng tải liên tục Kim Các tự (Kinkakuji) trên tạp chí Shinchô. Cũng cho đăng Một mùa xuân quá dài (Nagasugita haru) cho đến tháng Mười hai trên Fujin Kurabu. Tháng Ba đăng Tuổi 19 (Juukyuusai) trên Bungei, tháng Bảy đăng Chòm sao bàn chân (Ashi no seiza) trên Ô-ru Yomimono, tháng Chín đăng xã luận Liệu rùa có đuổi kịp thỏ? Những vấn đề của các nước chậm tiến (Kame wa usagi ni oitsuku ka? Koshinkoku no shômondai) trên Chuuô Kôron. Tháng Chín, đăng Con thuyền bố thí ngạ quỷ (Segaki no fune) trên Gunzô. Tháng Mười một đăng Bàn về cảm giác say sưa (Tôsui ni tsuite) trên Shinchô. Lúc này, ban kịch Bungakuza đang diễn vở kịch Tòa nhà Lộc Minh Quán (Rokumeikan) của ông ở Tokyo, còn văn bản đã được đăng trên tạp chí Bungakukai. Tháng Mười hai đăng đoản thiên Đi hết bảy cây cầu (Hashizukushi) trên Bungei Shunjuu. Trong năm này Tiếng sóng xao được dịch qua Anh ngữ và phát hành.

  • 1957: (32 tuổi) Tháng Giêng, ra mắt Onnagata trên tờ Sekai và vở Nô cận đại Đạo Thành Tự (Dôjôji) trên tờ Shinchô. Tiểu thuyết KimCác Tự được trao Giải văn học lần thứ 8 của báo Yomiuri. Tháng Ba đăng liên tục đến tháng Sáu Khi đạo đức sa chân (Bitoku no yoromeki) trên Gunzô. Tháng Sáu cho đến tháng Tám đăng bài nghiên cứu Liệu tiểu thuyết hiện đại đã có được tác phẩm sáng giá nào chưa? (Gendai shôsetsu wa koten tariuruka?) Tháng Bảy, đăng vở kịch Hoa đỗ quyên ban mai (Asa no tsutsuji) trên tạp chí Bungakukai. Vở kịch này sẽ được nhóm kịch Shinsei Shimpa trình diễn ở rạp Shimbashi vào tháng sau. Được nhà xuất bản Knopp mời sang Mỹ. Tháng Tám, đăng truyện ngắn Bạn Takaakira (Takaakira). Tháng Chín nói chuyện ở Đại học Chicago về “Hiện trạng văn đàn Nhật Bản, ảnh hưởng đến từ Tây phương” và đăng nguyên văn bài ấy trên tờ Shinchô. Sau khi rời Mỹ, đi các đảo Tây Ấn, Mexico và miền Mam nước Mỹ. Khi đạo đức sa chânđược hãng Nikkatsu dựng thành phim. Tháng Mười một và Mười hai, toàn tập 19 quyển tác phẩm của ông được nhà Shinchô thu thập và xuất bản. Cùng năm, Tuyển tập Nô cận đại (Kindai Nôgakushuu) được dịch sang tiếng Anh (Nxb Knopp phát hành).

  • 1958: (33 tuổi) Tháng Giêng, về nước sau khi ghé Tây Ban Nha và Ý. Tháng Ba đăng Quyển sách bằng tranh về một chuyến đi (Tabi no ehon) trên Shinchô và Bàn về chết chung vì tình (Shinjuuron) trên tạp chí phụ nữ Fujin Kôron. Tháng Tư cho đăng Nhật ký (Nikki), tháng Năm đăng vở kịch Hoa hồng và cướp biển (Bara to kaizoku). Kim Các tự lại được nhóm kịch Shimpa trình diễn ở rạp Shimbashi (Tokyo). Tháng Sáu, cưới cô sinh viên ban Anh văn Sugiyama Yôko – con gái nhà danh họa Sugiyama Yasushi – qua sự mai mối của Kawabata Yasunari. Tháng Bảy, công bố Bài giảng về giáo dục vô đạo đức (Fudotoku kyôiku no kôza). Vở Nô cận đại Hàm Đan được diễn ở Hawai. Tháng Mười, Ngôi nhà của Kyôko được Kôdansha xuất bản. Các vở Nô cận đại lại được đem đi lưu diễn ở Hamburg và 24 tỉnh thành Đức. Trong tháng Mười hai, xuất hiện bản dịch sang Anh văn của Lời tự thú của mặt nạ và Hoa hướng dương ban đêm.

  • 1959: (34 tuổi) Tháng Giêng đăng Tập đọc văn (Bunshô Tokuhon) trên Fujin Kôron. Các vở Nô hiện đại của ông được diễn ở San Francisco. Ông bắt đầu tập đánh kiếm (Kendô). Tháng Năm, đăng tập tự truyện Chân dung tự họa năm 18 và 34 tuổi (Juuhachi to sanjuuyonsai no shôzôga). Dọn về ngôi nhà mới trong khu Umagome (Tokyo), con gái lớn là Nagako ra đời. Tháng Mười đăng vở kịch Đàn bà không thể bị chiếm đoạt (Onna wa senryô sarenai) trên tờ Koe. Tháng Mười một, cho đăng Cái bóng (Kage) rồi Khỏa thân và áo quần (Katai to ishô). Trong năm này, Kim Các tự và Tập Nô cận đạiđược dịch ra tiếng Tây Ban Nha từ Anh văn (do Nxb Knopp).

  • 1960: (35 tuổi). Tháng Giêng, đăng vở kịch Cây nhiệt đới (Nettaijuu) trên tạp chí Koe. Cho đến tháng Mười, đăng nhiều kỳ trên tạp chí Chuuô Kôron truyện dài Sau bữa tiệc (Utage no ato). Tháng Ba, đóng vai chính trong Kẻ rỗng tuếch (Karappô Yarô), một phim của hãng Daiei. Từ tháng Ba đến tháng Mười một, các vở Nô cận đại được diễn ở Mexico City (Mexico), Kerang (Úc) và Newport, New York (Mỹ). Tháng Bảy, vở Nô cận đại Chú tiểu mù (Yorobôshi) được đăng trên Koe. Tháng Chín đăng Cái phích nước triệu Yen (Hyakumanen no terumosu) trên Shinchô. Tháng Mười một đăng Ngôi sao (Sutaa) trên Gunzô. Bắt đầu chuyến du hành vòng quanh thế giới với vợ mình (đến tháng Giêng năm sau). Tháng Mười hai, đăng Ưu quốc (Yuukoku) trên chuyên san Shôsetsu Chuuô Kôron.

  • 1961: (36 tuổi) Tháng Giêng, vở kịch Cây nhiệt đới được nhóm kịch Bungakuza trình diễn. Tháng Hai, các vở Nô cận đại của ông được diễn ở New York suốt 50 hôm. Tháng Ba, có vấn đề pháp lý với tác phẩm Sau bữa tiệcvì chính trị gia Arita Hachirô (1884-1965) – ứng cử viên Thị trưởng Tokyo lúc đó – đã đưa ông ra tòa với tội danh “dùng tin tức cá nhân để viết tiểu thuyết có tính phỉ báng”. Tháng Tư, đăng Thi tuyển Tân Cổ Kim Tập hay Mỹ học về những sự vật không tồn tại (Shin Kokinshuu: Sonzaishinai mono no bigaku) và Những gì đi ngược với cái Đẹp (Bi ni sakarau mono). Tháng Sáu đến tháng Chín, đăng Trò chơi của bầy thú (Kedamono no tawamure) trên Shuukan Shinchô. Tháng Bảy đăng Ma quỷ: cấu tưởng về thời hiện đại (Ma: gendai jôkyô no shôchôteki kôzu) và Venise mùa đông: Du lịch thế giới (Fuyu no Benisu: sekai no tabi). Tháng Chín, đăng Quả dâu tây (Ichigo). Tháng Mười, sang Mỹ, ở lại San Francisco độ nửa tháng và tham dự hội thảo về Nhật Bản… Tháng Mười một, nhóm kịch Bungakuza diễn vở Hoa cúc ngày thứ 10 (Tôka no kiku). Tháng Mười hai, Chết giữa mùa hè và Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga được dịch sang tiếng Anh, Kim Các tự được dịchsang tiếng Pháp và Đức, Tiếng sóng xao được dịch sang tiếng Ý.

  • 1962: (37 tuổi) Tháng Giêng, đăng Hoa cài trên nón(Bôshi no hana) trên tạp chí Gunzô, Cái bình thủy(Mahôbin) trên Bungei Shunjuu, truyện dài Ngôi sao xinh đẹp (Utsukushii Hoshi) liên tục đến tháng Mười một trên Shinchô. Tình yêu chạy hụt hơi (Ai no shisso) liên tục đến tháng Mười hai trên Fujin Kurabu. Tháng Hai, vở Hoa cúc ngày thứ 10 nhận giải kịch nghệ Nhật báo Yomiuri lần thứ 13. Tháng Ba, đăng vở Nô cận đại Cúng dường chàng Genji (Genji Kuyô) trên Bungei. Tháng Tư Con kỳ nhông đen (Kuroi tokage) được bà Yoshida Fumiko chuyển thành kịch bản và cho trình diễn. Tháng Tư, vở kịch Ba màu cơ bản (Sangenshoku) được trình diễn. Tháng Năm, đến lượt vở Nô cận đại Cái trống gấm được đưa lên sân khấu. Con trai cả là I.ichirô (Uy nhất lang) ra đời. Tháng Tám, đăng Trăng(Tsuki) trên tờ Sekai. Tháng Mười cho đăng hai xã luận về văn học là Bàn về Tanizaki Jun.ichirô (Tanizaki Jun.ichirô-ron) và Viết tiểu thuyết như viết lịch sử hiện đại (Gendaishi to shite no shôsetsu). Tháng Mười một, vở Tòa nhà Rokumeikan được nhóm kịch Shimpa đưa lên sân khấu. Tháng Mười hai biên tập Quyển tập đọc văn Kawabata Yasunari (Bungei Tokuhon: Kawabata Yasunari). Cùng trong năm này, Tiếng sóng xao được dịch sang tiếng Đức, Lời tự thú của mặt nạ được dịch sang tiếng Tây Ban Nha, Kim Các tự và Tiếng sóng xaođược dịch sang tiếng Thụy Điển, Kim Các tự được dịch sang tiếng Ý.

  • 1963: (38 tuổi) Tháng Giêng, đăng Bánh nho (Budôpan) trên tờ Sekai, Ngọc trai (Shinjuu) trên Bungei, Xe hơi(Jidosha) trên Ô-ru Yomimono và đăng nhiều kỳ (đến tháng Mười hai) trường biên Trường học của thân xác (Nikutai no Gakkô) trên tạp chí Madomouzeru (Mademoiselle) cũng như Thời lang bạt của tôi(Watashi no henreki jidai) cho đến tháng Năm trên nhật báo Tokyo Shimbun. Tháng Hai đăng Bàn về Hayashi Fusao (1903-1975) trên Shinchô và Ông bố đáng thương(Kawaisôna Papa) trên Shôsetsu Shinchô. Đóng vai người mẫu trong bộ ảnh Hình phạt hoa hồng (Barakei) của nhiếp ảnh gia Hosokawa Hidekimi. Tháng Sáu, dịch vở nhạc kịch La Tosca của Ý chung với Andô Shinya và đưa lên sân khấu. Tháng Bảy, viết xong vở Opera Cô Minoko (Minoko). Tháng Tám, đăng Bồn phun nước giữa cơn mưa (Ame no naka no funsui) trên Shinchô, Tấm vé (Kippu) trên Chunô Kôron và Vài ý kiến về nghệ thuật (Geijutsu dansô) nhiều kỳ trên Geijutsu Shinchô. Tháng Chín, tiểu thuyết trường thiên Lỡ chuyến tàu chiều (Gogo no eikô) được Kôdansha xuất bản. Tháng Mười, đăng Lưỡi kiếm (Ken) trên Shinchô và Phương pháp sáng tác của tôi – Mấy vấn đề về phương pháp sáng tác (Waga sôsaku hôhô – Sôsaku hôhô no mondai) trên Bungaku. Vở kịch Tiếng đàn vui(Yorokobi no koto) viết cho đoàn kịch Bungakuza bị nội bộ họ phản đối không chịu diễn nên ông rút ra không hợp tác. Cũng trong năm này Sau bữa tiệc được dịch sang tiếng Anh, Tập tuồng Nô cận đại được dịch sang tiếng Thụy Điển, Kim Các tự được dịch sang tiếng Na Uy và Lời chào của chiếc tàu (Fune no aisatsu) được dịch sang tiếng Tiệp.

  • 1964: (39 tuổi) Tháng Giêng, đăng Lụa và thẩm định(Kinu to meisatsu) đến tháng Mười trên Gunzô và Âm nhạc (Ongaku) trên Fujin Kôron (đến tháng Mười hai). Cho đăng vở kịch Tiếng đàn vui (Yorokobi no koto) trên Bungei. Tháng Năm, đăng Mỉm cười (Hohoemi) vốn dịch từ thơ của James Merryl cũng trên Bungei. Từ hạ tuần tháng Sáu lại sang New York. Tháng Tám, trình làng Đường về Kumano (Kumanoji). Tháng Chín, nhà Tôgensha xuất bản Con thuyền tên Hạnh phúc ra khơi(Kôfuku go shuppan). Thua trong vụ tranh tụng về cuốn Sau bữa tiệc tại tòa án Tokyo. Tháng Mười đăng vở kịch Mất bóng thuyền tình (Koi no hokage) trên Bungakukai và đăng Kháng nghị về phán quyết của Sau bữa tiệc: Không chỉ là vấn đề của riêng tôi (Watashi dake no mondai dewa nai: Utage no ato no hanketsu wo kôgi suru) trên tuần san Asahi. Lụa và thẩm địnhđược Giải văn nghệ của báo Mainichi lần thứ 6. Tháng Mười hai, nhà Shuueisha xuất bản Giới tính thứ nhất: những nghiên cứu về nam tính (Daiichisei:Dansei kenkyuu kôza). Trong năm này Lời tự thú của mặt nạđược dịch sang tiếng Ý, Sau bữa tiệc và Tập tuồng Nô cận đại được dịch sang tiếng Đan Mạch, Lỡ chuyến tàu chiều được dịch sang tiếng Na Uy.

  • 1965: (40 tuổi) Tháng Giêng, đăng Chuyện lạ ở trang viên Gekkan (Gekkansô kitan) trên Bungei Shunjuu, Hành hương vùng Tam Sơn (Mi Kumano Môde) trên Shinchô, Ba hướng đi của văn học (Bungaku no mitsu hôkô) trên Tembô. Tháng Hai đăng Chim công(Kuujaku) trên Bungakukai. Tháng Ba được mời sang London và ở lại đó một tháng. Tháng Tư đăng trên tờ Hihyô vở kịch thần bí Thánh Sebastian tuẫn đạo (Sei Sebasuchan no junshi) vốn dịch chung với Ikeda Kôtarô từ nguyên tác của Gabriele d’Annunzio. Dựng phim Ưu quốc do tác giả đạo diễn và thủ vai chính, tác phẩm dự thi liên hoan phim ngắn ở Tours (Pháp), được giải nhì. Tháng Năm, cho trình diễn hai vở Nô cận đại Chú tiểu mù và Nàng Ban ở Shinjuku (Tokyo). Tháng Sáu đăng Buổi sáng của tình yêu trong trắng (Asa no jun.ai) trên tờ Nihon. Tháng Tám, đăng Đôi mắt: vài ý kiến về nghệ thuật (Me: aru geijutsu dansô). Tháng Chín cho đăng liên tục trên Shinchô Tuyết mùa xuân (Haru no Yuki), quyển đầu trong tứ bộ tác Bể Phong Nhiêu (Hôjô no umi). Tháng muời một, cùng phu nhân Yôko đi thăm Mỹ, Âu châu và Đông Nam Á nhằm thu thập nguồn tài liệu để sáng tác. Cùng lúc vở kịch Nữ hầu tước de Sade(Sado kôshaku fujin) được đăng trên Bungei và Mặt trời và thép (Taiyô to tetsu) trên Hihyô. Trong năm này, nhà xuất bản Knopp đã cho in Lỡ chuyến tàu chiều bản tiếng Anh. Ngoài ra, trong năm đó còn thấy sự xuất hiện của Sau bữa tiệc bản dịch tiếng Pháp do nhà Gallimard xuất bản, Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga bằng tiếng Đức, Kim Các tự bằng tiếng Đan Mạch.

  • 1966: (41 tuổi) Tháng Một đăng Đồng bọn (Nakama) trên tạp chí Bungei, Người đàn ông phức tạp(Fukuzatsu na kare) trên Josei Sebun. Nữ hầu tước de Sade được Giải thưởng về bộ môn kịch của Bộ Giáo Dục lần thứ 20. Tháng Hai, đăng Một nghệ sĩ nguy hiểm (Kikenna geijutsuka) trên Bungakukai, Mỹ học về sự kết thúc (Owari no bigaku) nhiều kỳ trên tờ Josei Jishin. Tháng Ba đăng Đại học chống các cô đồng trinh(Hanteijo Daigaku) trên Shinchô và Chủ nghĩa quốc gia kiểu ăn nhanh (Ochazuke nashionarizumu) trên Bungei Shunjuu. Tháng Sáu đăng Tiếng nói của những hồn thiêng (Eirei no koe) trên Bungei. Từ tháng Chín, đăng nhiều kỳ Lớp dạy viết thư của Mishima (Mishima no letta kyôshitsu) trên tờ báo phụ nữ Josei Jishin và Bộ đồ dạ hội (Yakaifuku) trên tạp chí Moadomoazeru. Tháng Mười, đăng Từ nơi hoang dã (Kôya yori) trên Gunzô. Tháng Mười một, đi đến hòa giải với gia đình Arita trong vụ án về cuốn Sau bữa tiệc. Cùng lúc, vở kịch Đêm Ả Rập (Nghìn lẻ một đêm – Arabian naito) được diễn trên sân khấu Nissei với diễn viên trẻ Kitaôji Kin.ya. Tháng Mười hai đăng phần thứ tư cũng là phần chót của Mặt trời và thép trên tờ Hihyô và Bàn về thơ Itô Shizuo (Itô Shizuo no shi) trên Shinchô. Trong năm này Chết giữa mùa hè và các truyện ngắn khác được Nhà xuất bản New Direction cho in bằng tiếng Anh.

  • 1967: (42 tuổi) Tháng Giêng, đăng Đêm Ả Rập trên mặt báo Bungakukai và Cái đồng hồ trên Bungei Shunjuu. Từ tháng Hai đăng liên tục Ngựa bon (Honba) tức phần hai của tứ bộ tác Bể phong nhiêu trên Shinchô và Hình ảnh người thanh niên (Seinenzô) trên Geijutsu Shinchô. Tháng Tư, theo khóa huấn luyện quân sự ở nhiều đơn vị thuộc Lực lượng tự vệ Nhật Bản (Jieitai) trong một tháng rưỡi, viết và đăng trên Sande Mainichi Kinh nghiệm huấn luyện với Iteitai vào tháng Sáu. Đến tháng Bảy, cho in Những khuôn mặt nghệ thuật (Geijutsu no kao) rồi Tìm hiểu sơ khởi về tác phẩm Hagakure(Hagakure nyuumon) và Bộ đồ dạ hội vào tháng Chín. Được chính phủ Ấn Độ mời sang tham quan độ một tháng rưỡi. Cùng đi với phu nhân Yôko, khi về còn ghé Lào, Thái Lan. Tháng Mười, cho đăng vở kịch Sự tiêu vong của gia đình Suzaku (Suzakuke no metsubô). Tháng Mười một, nhà xuất bản Chikuma ghép các truyện ngắn của Mishima, Tanizaki và Kawabata vào chung một tuyển tập. Hai vở Nàng Yuya, Nàng Aoi của ông lại được diễn trên sân khấu Art Theater ở Shinjuku (Tokyo). Tháng Mười hai, một toàn tập với các tác phẩm tiểu thuyết trường thiên của Mishima được nhà Shinchô thu thập và xuất bản. Cũng trong năm này, bản tiếng Anh của Nữ hầu tước de Sade (nhà xuất bản Goble Press) và bản tiếng Tiệp của Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga đã được ra mắt.

  • 1968: (43 tuổi) Tháng Giêng đăng Trung úy Maruya tự vẫn (Maruya ni.i no jinin) trên nhật báo Sankei. Tháng Ba, đưa 20 đồng chí trẻ đến doanh trại lục quân của Jieitai để thụ huấn quân sự. Tháng Tư, nhà xuất bản Knopp phát hành bản dịch tiếng Anh của Tình kiểu cấm. Lại cho diễn Con kỳ nhông đen ở rạp kịch Tôyoko với nghệ sĩ chuyển giới Maruyama Akihiro. Tháng Năm, ký lục về cuộc tọa đàm trao đổi về chủ đề “Con người và văn học” (Ningen to bungaku) với nhà phê bình Nakamura Mitsuo được in thành sách. Tháng Sáu đăng Quốc phòng bằng văn hóa (Bunka bôeiron) trên Chunô Kôron. Các bạn của Mishima soạn Tuyển tập về văn học đồi phế (Decadensu Tokushuu). Tháng Bảy, nhà xuất bản Gallimard in Lỡ chuyến tàu chiều bản tiếng Pháp. Lại đưa 30 thành viên của nhóm bán quân sự của mình đi học quân sự. Tháng Tám, đối thoại với nhà văn Ishikawa Jun (1899-1987) trên báo Bungakukai và bắt đầu cho in nhiều kỳ Ngôi chùa trong bình minh(Aakatsuki no tera) tức quyển ba của tứ bộ tác Bể phong nhiêu trên mặt báo Shinchô. Trở thành một nhân viên điều hành Hội nghị các nhà văn hóa Nhật Bản. Tháng Chín, thành lập Tate no kai (Hội Cái Khiên) chủ yếu với các đồng chí đã được đưa đi huấn luyện quân sự. Tháng Mười, đóng góp tranh ảnh và xã luận trên báo Máu và hoa hồng (Chi to bara) số ra mắt và viết bài nhận định về việc nhà văn Kawabata được giải Nobel văn chương. Nhân năm đó kỷ niệm 100 năm Minh Trị Duy Tân (1868-1968), cho diễn vở múa ba-lê Vua Miranda (Miranda) trên sân khấu Nissei (Tokyo). Tháng Mười một, đăng vở kịch phúng thích Hitler, bạn ta (Hitora, wa ga tomo) trên Bungakukai. Có mặt ở bàn tròn do báo Bungei Shunjuu tổ chức thảo luận về cuộc tranh chấp đang xảy ra ở Đại học Tokyo giữa sinh viên và chính quyền.

  • 1969: (44 tuổi) Tháng Giêng, nhà Shinchô xuất bản Tuyết mùa xuân (Haru no yuki) và kịch đoàn Roman diễn Hitler, bạn ta ở Tokyo. Tháng Hai, Shinchô lại xuất bản Ngựa bon. Tháng Ba, Mishima đi thăm thành phố Gotemba gần núi Phú Sĩ để thu thập tài liệu viết tiếp Ngôi chùa trong bình minh. Tháng Tư, nhận một vai trong phim Chém người (Hitogiri). Tháng Năm, Nữ hầu tước Sado được in thành sách. Cùng lúc đó, tham gia buổi thảo luận với các sinh viên Đại học Đông Kinh. Tháng Sáu, phim Chém người ra mắt.

  • 1970: (45 tuổi) Tháng Giêng, đăng Cánh cung căng nửa vầng trăng (Chinsetsu Yumiharuzuki) trên Chuuô Kôron. Tháng Ba, được Tạp chí Mỹ Esquire liệt vào 100 nhân vật quan trọng trên thế giới. Tháng Năm, đi thăm vùng Shimizu và Tsuruga để thu thập thêm tài liệu viết Người tiên bị đọa (Tennin gosui), quyển cuối cùng trong tứ bộ tác Bể phong nhiêu. Sang tháng Sáu thì dù chưa xong đã bắt đầu đăng thành nhiều kỳ trên tờ Shinchô (cho đến tháng một năm 1971). Tháng Bảy, đi Shimizu, Shimoda và Ôshima để ngắm cảnh hoàng hôn trên biển. Đến tháng Tám, lại đi thực địa ở Enshôji (Viên Chiếu Tự), đều với mục đích thu thập tài liệu để viết những phần sau của Người tiên bị đọa. Tháng Mười một, tiệm bách hóa Tôbu ở khu Ikebukuro (Tokyo) mở cuộc triển lãm về Mishima Yukio cho đến ngày 17, có đến một vạn người xem mỗi ngày. Sau khi trao những trang bản thảo cuối cùng cho nhà xuất bản, ngày 25 tháng Mười một, ông đã cùng bốn đồng chí xâm nhập doanh trại lực lượng Jieitai ở Ichigaya, trói gô viên chỉ huy và kêu gọi binh lính nổi loạn để phục hồi vương quyền nhưng trước sự lãnh đạm và nhạo báng của mọi người, đã mổ bụng tự sát.

  • 1971: Tháng Giêng, được mai táng trong nghĩa trang Tama ở Fuchuu, ngoại ô Tokyo. Người tiên bị đọa được báo Shinchô cho đăng trọn vẹn và sau đó in thành sách.

 

Khác với một số định kiến, nhìn vào niên biểu sáng tác, ta thấy Mishima Yukio đã sống một cuộc đời trọn vẹn hiến thân cho văn học và nghệ thuật chứ không phải cho chính trị (mà phải nói là trong lãnh vực này, ông đã quá không tưởng). Cũng có thể là qua những hoạt động văn học và nghệ thuật vừa kể, Mishima đã bày tỏ một nhân sinh quan mấp mé bên lề thời đại (marginal – phản chủ lưu) nhưng thử hỏi đã ai có được một niềm đam mê mãnh liệt đối với văn học và nghệ thuật, lại sáng tác hết sức đều tay bằng ông. Chưa có cơ hội tổng kết văn nghiệp của Mishima, chúng tôi chỉ ghi nhận một ấn tượng là từ năm 1941 – lúc mới đầu viết – cho đến năm 1970 là khi ông mất, trong vòng gần 30 năm, trung bình ông để lại mỗi năm ít nhất trên năm tác phẩm, dài có ngắn có, gồm truyện, ký sự, phiên dịch, xã thuyết, bình luận và kịch bản… Một bản tóm tắt sơ lược in trên mạng cho biết ông đã viết 40 tiểu thuyết và 18 vở kịch, cho in khoảng 20 tập truyện ngắn và 20 tập tiểu luận. Không những thế, Mishima đã tham gia hội thảo, phỏng vấn, nhất là lên sân khấu hay đến phim trường nhiều lần để đóng vai trò đạo diễn hay diễn viên. Tính đến nay, đã có 17 tác phẩm của ông đã được các hãng điện ảnh hàng đầu quay thành 18 bộ phim (có một phim quay hai lần), trong đó ông có mặt ít nhất trong năm bộ phim với sự tham gia của nhiều tài tử gạo cội như Mifune Toshirô, Katsu Shintarô, Ichikawa Raizô, Nakadai Tatsuya, Kyô Machiko, Wakao Ayako, Yoshinaga Sayuri, Asaoka Ruriko v.v… Theo thứ tự thời gian ra đời như sau:

* Đêm thuần khiết (Junpaku no yoru), 1951, do hãng Shôchiku, đạo diễn: Ôba Hideo, diễn viên chính: Mishima Yukio.

* Cuộc mạo hiểm của Natsuko (Natsuko no bôken), 1953, Shôchiku, đạo diễn: Nakamura Noboru.

* Hàng mác Nhật (Nipponsei), 1953, do hãng Daiei, đạo diễn: Shima Kôji, diễn viên chính: YamamotoFujiko.

* Tiếng sóng xao (Shiosai) (bộ phim thứ nhất), 1954, do hãng Tôhô, đạo diễn: Yaguchi Senkichi. Có sự góp mặt của Mifune Toshirô.

* Mùa xuân quá dài (Nagasugita haru), 1957, Daiei, đạo diễn: Tanaka Shigeo.

* Khi đạo đức sa chân (Bitoku no yoromeki), 1957, Nikkatsu, đạo diễn: Nakahira Kô.

*Kim Các tự (Kinkakuji), 1958, Daiei, đạo diễn: Ichikawa Kon, diễn viên chính Ichikawa Raizô và Nakadai Tatsuya.

* Bài giảng về giáo dục vô đạo đức (Fudôtoku kyôiku kôza), 1959, Nikkatsu, đạo diễn: Nishikawa Katsumi, diễn viên chính: Mishima Yukio.

* Ngọn hải đăng (Tôdai), 1959, Tôhô, đạo diễn: Suzuki Hideo.

* Cô nương (Ojôsan), 1961, Daiei, đạo diễn: Yumi Sakutarô, diễn viên chính: Wakao Ayako.

* Con kỳ nhông đen (Kuroi tokage), 1962, Daiei, đạo diễn: Inoue Umeji, diễn viên chính Kyô Machiko.

* Lưỡi kiếm (Ken), 1964, Daiei, đạo diễn: Misumi Kenji, diễn viên chính: Ichikawa Raizô.

* Tiếng sóng xao (Shiosai) (bộ phim thứ hai), 1964, Nikkatsu, đạo diễn: Morinaga, Kenjirô, diễn viên chính: Yoshinaga Sayuri.

 

Download

Chết Giữa Mùa Hè

Bookmark (0)
Please login to bookmarkClose

Giới thiệu Chết Giữa Mùa Hè Tweet! Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Chết Giữa Mùa Hè của tác giả Yukio Mishima.   Truyện Ưu quốc (Yuukyoku) được Miêng dịch từ bản…

Bookmark (0)
Please login to bookmarkClose