Download App tải ebook tốt nhất: https://h.nhuttruong.com/app
Giới thiệu ebook
VÀO khoảng năm 1895-1900, Nam-định là một thành-phố phồn-thịnh, nhờ cái địa-thế ở chỗ trung-tâm-điểm của miền hạ-du Bắc-Việt Nam định là chỗ phân phát sản-vật của một xứ đất-đai phì-nhiêu, cái thị-trường giao-dịch với các nước ngoài. Nam-định, thành-phố thương-mại, cũng như Hà-nội, thành-phố quan-lại. Duy chỉ sau khi lập ra hải-cảng Hải-phòng, Nam-định mới thấy uy-linh của mình mất dần đi, cho đến lúc cùng đứng ngang hàng với các thành-phố lân-cận.
Mà nếu như Thăng-Long là « đất nghìn năm văn-vật », Nam-thành lại chính là đất gầy-dựng nền văn-vật ấy. Nam-thành chính là chỗ lựa-lọc anh-tài, kén-chọn hiền sĩ, để ra trị nước, trị dân : đó là chỗ, ba năm một lần, người ta mở khoa thi-cử.
Năm đinh-dậu, niên-hiệu Thành-thái thứ 9 (1879), khoa thi Hương có phần náo-nhiệt hơn cả. Quan Toàn-quyền Armand Rousseau tạ thế năm trước (1896). Quan Toàn-quyền Paul Doumer mới qua nhận chức. Ở Bắc-Việt, vừa nổi lên một phong-trào đảo-chính mà động-lực lại ở trong tay bọn văn-thân. Thủ-lĩnh cuộc bài ngoại ấy là một tên thiếu-niên sĩ-tử, tự xưng là Kỳ Đồng.
Tuy cuộc cách-mệnh bị đàn-áp ngay lập tức, người ta vẫn ngờ rằng luồng không-khí quá-khích kia còn phảng-phất nơi đám sĩ-phu, bấy giờ đang tụ-họp ở Nam-thành chờ ngày ứng thí.
Số thi-sinh khoa ấy đông ngót vạn rưỡi người, trù cho mỗi người đem theo một tên gia-đinh coi việc nấu-nướng, và một người bà-con (có nhiều học-trò đem cả cha, mẹ, vợ, con, bầu-bạn theo nữa, nhưng ta chỉ lấy số ít nhất ; cả thảy tính đến bốn-mươi-lăm nghìn người, cộng với số dân sẵn có trong thành-phố, tất cả có thể làm một đạo binh mà chẳng ai dám khinh thường.
Vì thế, ngay khi những sĩ-phu đầu-tiên lục-tục mang yên-trại đến Nam-thành, thì các đội binh bộ Pháp ở các tỉnh, cũng kéo về đóng phòng-ngữ và luôn tiện tiếp rước quan Toàn-quyền mới, ngài đã định đến chứng-kiến cuộc thi.
Dưới sông hai chiếc pháo-thuyền để hiệu « L’Avalanche » và « Le Jacquin » kéo cờ tam-tài, chở súng đại-bác. Chung-quanh là ghe đò của những kẻ đã dùng đường thủy mà đến trường văn. Hai bên bờ, quán-xá tấp nập. Trên dưới trông rợp trời, khuất nước : một quang-cảnh hùng-tráng náo-nhiệt lạ thường.
Trong khi đợi ngày khai-mạc, thí-sinh và bà-con bầu-bạn ăn chơi vui-vẻ : nơi ngâm vịnh, xướng họa ; nơi cờ-kiệu, rượu-chè ; nhất là ở mấy hàng thịt, lại càng ồn-ào, đông-đúc. Họ sắp hàng những con cầy quay vàng ngời, béo phệ ; mùi thơm bay lên ngát mũi. Lại trong những quán sang-trọng, người ta bày nhiều chiếc thống sành xưa, to rộng, ở trong lội đầy những con cá giếc vừa chài dưới nước lên. Những cá ấy, không phải để chưng-diện như cá thia tàu, mà chính để ăn tươi với nước lèo rau sống. Khách ăn dùng vải tây điều, nắm cá mà cắn, cho huyết khỏi dính tay, hoặc để khỏi thấy sắc hồng ghê-tởm.
Các sĩ-tử đã lần-lượt dựng – hay nói cho đúng, đã cậy người nhà dựng cho, vì văn-thân, không bao giờ được làm việc gì khó-nhọc bằng tay – những lều-trại khum-tròn, thấp, hẹp, vào phải co-ro như con tò-vò chui vào tổ đất. Dẫu sao, đứng trên cao trông xuống, giữa trường thi rộng mấy trăm mẫu, lúp-xúp kề nhau, chỉ vừa lọt lưng người, những lều tránh tí-hon, vàng xám, như một đàn bò vô số con ấy, đủ bày ra một cảnh-tượng hùng-vĩ uy-nghiêm ; càng hùng-vĩ, càng uy-nghiêm, vì nó yên-tĩnh, lẳng-lặng, mơ-màng, như cả cái tinh-thần Đông-phương vậy.
Khoa thi ấy, như trên đã nói, chính-phủ nghiêm phòng dữ lắm. Ban đêm, sĩ-tử ai phải ở nhà trọ nấy, không được ra phố tụ-họp ; hoặc giả người nào có việc cần, còn phải lang-thang ngoài đường, khi đã quá tám giờ tối, tất phải bị bắt, hỏi thẻ và khuấy-rầy nhiều lắm.
Chính trong những ngày ấy mà người ta khẩu truyền bài thơ « DẶN HỌC-TRÒ ĐI THI », các thí-sinh, nơi cụm năm, nơi lũ bảy, thì-thầm đọc cho nhau nghe bằng một vẻ bí-mật, lạ-lùng, xong rồi đồng cười rộ lên, vì bài thơ chẳng qua là một bài trào-phúng của một tên học-trò quán ở làng Vị-xuyên, nhân cái tình-hình lúc ấy mà đặt ra. Chúng ta hãy xem đây :
« Đi thi, đi cử, các thầy nho,
Ta dặn điều này phải nhớ cho.
Ra phố, khăn ngang quàng lấy mặt,
Vào trường, quần rộng xắn lên khu.
Câu văn đắc ý đừng ngui-ngủi,
Chén rượu mềm môi chớ gật-gù.
Nghe nói khoa này nghiêm-cấm lắm,
Đêm hôm phải sợ phép quan Cò ! »
Cái « quan cò » ấy, thật không bao giờ được lòng yêu-chuộng của các sĩ-phu, và có khi lại bị khinh-thường nữa. Bằng cách gì, chúng ta sẽ thấy ở một mục sau.
Ngày khai hội, trời chưa sáng, người ta đã đổ xô cả lại bờ sông, để xem quan Toàn-quyền đến. Các quan cai-trị Tây Nam, các bậc thân-hào phú-hộ ở Nam-thành đều đi xe kéo, bánh sắt lộp-cộp, lạt-cạt, cao khấp-khênh như cặp cà-khêu, tấp nập ra chực sẵn ở bến đò để tiếp ngài. Không bao lâu thì những pháo-thuyền của ông Paul Dourner, phu-nhân và các bộ văn-phòng võ-giá, thủng-thẳng rẽ làn nước vào bờ. Các đội lính bộ, bồng súng, giắt lưỡi lê chói-lọi dưới những ngọn đuốc chưa tàn, và ánh-sáng lờ-mờ của mặt trời sắp mọc, đứng làm hai hàng rào chắc-chắn, ngăn những người tò-mò muốn thấy mặt quan Toàn-quyền. Súng thần-công 90 li, ở hai chiếc chiến-hạm L’Abalanche và Le Jacquin, nổ lệnh liên-thanh, thì các súng đại-bác nhỏ ở mấy chiếc pháo-thuyền hộ-tùng cũng phát hiện trả lời, nghe vang trời dội đất, giữa đám đông mười mấy vạn người, ai nấy đều yên-lặng, hiền-lành, cung-kính, không tỏ vẻ gì khả nghi. Phải chăng cái uy-vệ của súng thần-công nó sai-khiến được nên thế ? Mà sự sợ súng, hay nói cho đúng hơn, là sợ sức-mạnh, sợ cách tổ-chức và cách dụng binh vẫn có thật. Chính Tú Xương cũng đã thú nhận điều đó trong bài « VỊNH LÊN ĐỒNG » :
« Đồng giỏi sao đồng không giúp nước,
Hay là đồng sợ súng thần-công ? »
Tuy vậy, luồng không-khí bất bình vẫn còn chứa-chất trong lòng sĩ-tử. Bọn văn-nhân rủ nhau vây kín… lấy tên học-trò làng Vị-xuyên, bảo phải cho nghe bài thơ vịnh khoa thi, mà anh ta mới kín-đáo đọc cho vài bạn thân. Bài thơ như thế này :
« Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thì lẫn với trường Hà,
Lôi-thôi sĩ-tử vai đeo lọ ;
Ậm-ọe quan-trường miệng thét loa ».
Mời các bạn đón đọc Trông Giòng Sông Vị – Văn Chương Và Thân Thế Trần Tế Xương của tác giả Trần Thanh Mại.
Download ebook
FULL:
Download App tải ebook tốt nhất: https://h.nhuttruong.com/app Giới thiệu ebook Tweet! VÀO khoảng năm 1895-1900, Nam-định là một thành-phố phồn-thịnh, nhờ cái địa-thế ở chỗ trung-tâm-điểm của miền hạ-du Bắc-Việt…